Theo kết quả khảo sát của Viện nghiên cứu dầu thực vật (Bộ Công nghiệp), hiện nay diện tích trồng dừa ở nước ta khoảng 180.000 ha với năng suất quả bình quân gần 40 quả/cây/năm và năng suất cơm dừa khô đạt khoảng 1 tấn/ha/năm. Với mật độ trồng bình quân là 160 cây/ha thì cả nước hiện có khoảng 30 triệu cây dừa.
Hiện nay ở nước ta đang có khoảng 27.000 đến 30.000 ha dừa đang trong giai đoạn già, năng suất giảm cần được trồng lại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có khoảng gần 5 triệu cây dừa già cần đốn đi và cần phải được sử dụng như thế nào cho có hiệu quả. Với diện tích và số lượng dừa già này, chúng ta sẽ có khoảng 1,5 triệu m3 gỗ dừa, đáp ứng được một phần nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, vấn đề là xử lý như thế nào để có thể sử dụng thay thế nguyên liệu gỗ trong sản xuất. Theo ông Nguyễn Quang Thảo, Bộ Công nghiệp, từ trước tới nay, việc sử dụng thân gỗ dừa để làm hàng gia dụng vẫn chưa phổ biến trong cộng đồng vì việc khai thác không có hiệu quả kinh tế, công cưa cắt và vận chuyển còn cao. Đặc biệt là chúng ta chưa có công nghệ xử lý gỗ dừa nên các sản phẩm làm ra từ gỗ dừa còn nhiều nhược điểm, độ xốp cao, dễ bị mốc, nứt nẻ, mối mọt và biến dạng, không có giá trị cao.
Cho đến nay, việc sử dụng gỗ dừa để sản xuất hàng gia dụng là cá biệt, chưa hình thành một thị trường ổn định nên hầu hết thân gỗ dừa già đều bị bỏ đi hoặc dùng làm củi.
Trong năm 2004, nước ta đã xuất khẩu sản phẩm gỗ chế biến đạt 1 tỷ USD. Tuy nhiên, có tới 85% nguồn nguyên liệu gỗ dùng trong sản xuất chế biến phải nhập khẩu. Để mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ chế biến đạt giá trị 2 tỷ USD vào năm 2010, vấn đề nguyên liệu sẽ là một thách thức lớn.
Để giải quyết thách thức này, trồng thêm dừa và khai thác gỗ thân dừa bằng công nghệ EDS sẽ là một giải pháp mở ra hướng phát triển mới cho cây dừa và ngành khai thác chế biến sản phẩm gỗ nước ta. EDS là công nghệ mới của Nhật Bản tận dụng tác nhân nhiệt trong quá trình sấy để thay đổi kết cấu cơ lý của gỗ nhằm biến các loại gỗ rừng trồng làm nguyên liệu sản xuất, chế biến các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu.
Không chỉ với thân cây dừa, ngay cả với những loại cây tre, nứa, cau, thầu dầu, cao su...khi được xử lý qua công nghệ EDS cũng có thể trở thành những loại nguyên liệu có giá trị trong lĩnh vực chế biến gỗ và lâm sản, thay thế nhu cầu nguồn nguyên liệu gỗ đang khan hiếm, cạn kiệt.
Theo TS. Nguyễn Trọng Nhân, Trưởng phòng Chế biến Lâm sản (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) đánh giá, công nghệ EDS có khá nhiều ưu điểm với chu kỳ sấy nhanh, chỉ bằng 1/4 thời gian so với sấy truyền thống, dung tích sấy gấp 3 lần lò sấy ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt, EDS có thể s y được nhiều loại gỗ khác nhau, kể cả gỗ tròn, gỗ xẻ, tre, mây, gỗ thân dừa... và có thể biến tính nhiều loại gỗ. Việc áp dụng công nghệ EDS để tạo ra các sản phẩm từ thân cây dừa sẽ là thế mạnh và là tương lai của cây dừa nước ta.
Theo ông Thảo, muốn nâng cao giá trị cây dừa cần nghiên cứu đưa công nghệ EDS ứng dụng trong chế biến gỗ dừa, phục vụ sản xuất, thay thế nguồn nguyên liệu gỗ. Nhất là với những vùng là trung tâm dừa như Bến Tre thì việc áp dụng công nghệ EDS sẽ nâng cao hiệu quả và tăng giá trị thu của cây dừa, cải thiện điều kiện khu dân cư. EDS là một công nghệ hoàn toàn mới mở ra triển vọng, nâng cao giá trị cho cây dừa nói riêng và ngành chế biến lâm sản nói chung.
Tuy nhiên, theo TS. Nhân thì, chi phí ban đầu cho đầu tư công nghệ EDS là quá cao so với điều kiện kinh tế và và thực tế chế biến lâm sản ở nước ta. Chi phí cho một lò sấy EDS sẽ mất khoảng hơn 2 triệu USD là quá cao với khả năng người dân vùng trồng dừa. Đây là v n đề mà các nhà khoa học cần nghiên cứu và có giải pháp hợp lý.